ĐỘNG VẬT HẠI CÂY TRỒNG

Rễ lúa bị phình to - Bướu rễ lúa - Tuyến trùng gây hại trên cây lúa
ĐỘNG VẬT HẠI CÂY TRỒNG Rễ lúa bị phình to - Bướu rễ lúa - Tuyến trùng gây hại trên cây lúa
RỄ LÚA BỊ PHÌNH TO - BƯỚU RỄ LÚA - TUYẾN TRÙNG GÂY HẠI TRÊN CÂY LÚA Rice root knot nematode 1. Tuyến trùng là gì? - Tuyến trùng còn gọi là giun tròn (Nematode) là những động vật không xương sống thuộc ngành giun tròn (Nematoda hay Nemata) gồm 2 lớp: Secernente và Andenophorea có 11 bộ, nhiều họ, giống và loài. Hiện nay có trên 15.000 loài đã được khảo sát, trong đó có khảng 2.000 loài sống trong đất. Hầu hết tuyến trùng gây bệnh cho cây trồng thuộc bộ Tylenchida với 5 họ chủ yếu là Heteroderidae, Tylenchidae, Aphelenchidae, Tylenchalidae và Neotylenchidae. - Tuyến trùng có kích thước rất bé từ 0,5-5mm đa số dưới 2mm mắt thường không nhìn thấy được. Tuyến trùng thực vật sống và ký sinh ở tất cả các bộ phận của cây trồng bao gồm rễ, thân , lá và hoa. Tuyến trùng xung quanh rễ cây trồng 2. Triệu chứng gây hại trên rễ lúa - Tuyến trùng gây Bướu rễ trên lúa có tên khoa học là Meloidogyne graminicola. Tuyến trùng Meloidogyne cái  (hình quả lê) Tuyến trùng Meloidogyne đực - Tuyến trùng hại lúa có thể đục lỗ chui vào sinh sống bên trong rễ ngay từ khi mới gieo sạ và hình thành bướu trên rễ rất sớm (từ 5 ngày sau sạ). Cây lúa khoảng 1 tháng tuổi thường bị tuyến trùng xâm hại nếu đất ruộng có nguồn bệnh sẵn có. Khi bị xâm hại, cây lúa bị lùn, lá hơi vàng, tăng trưởng chậm; nhổ lên thấy rễ vẫn trắng nhưng bị ngắn lại, bướu xuất hiện ở nhiều đoạn của rễ hoặc ở chóp rễ, nơi có ổ tuyến trùng bị phù to tạo bướu 1 –  2 mm. - Khi bị tuyến trùng ký sinh, cây lúa bị bệnh bướu rễ sẽ bị chết khi còn non (2 – 3 lá) và phát triển chậm khi cây lúa ở giai đoạn 4 lá trở đi. Giai đoạn sau cây lúa ít bị chết nhưng tốn nhiều phân bón và cây phát triển kém do chất dinh dưỡng bị tắc nghẽn không vận chuyển nuôi thân lá được. Vì vậy, nếu bị nặng cây lúa sẽ có triệu chứng vàng lá, cháy khô từ chóp xuống, lúa phát triển kém, chồi nhiễm bệnh bị lùn, trổ sớm và có rất ít hạt, hạt bị lửng lép nhiều. - Tuyến trùng gây hại mạnh trong giai đoạn đầu của cây lúa, nhất là trong điều kiện ruộng lúa thường xuyên bị khô hạn, tuyến trùng sẽ ngừng sinh trưởng trong môi trường ngập nước. Những ruộng đất bị chua do bón nhiều lân từ những vụ trước hoặc đất có thành phần cơ giới nhẹ (cát pha) thì mật độ tuyến trùng thường cao hơn chân ruộng khác. Các chân ruộng để ải và giữ được nước thường xuyên sau gieo cấy sẽ ít bị tuyến trùng xâm hại. - Tuyến trùng sau khi xâm nhiễm 4 ngày, các đại tế bào được thành hình. Vòng đời của tuyến trùng có thể từ 26 – 51 ngày. Khi tuyến trùng xâm nhập vào bộ rễ cây và làm tổ tạo thành bướu sẽ làm tắc nghẽn sự vận chuyển nước và dinh dưỡng của hệ thống rễ, làm cây biến vàng rồi chết dần khi còn nhỏ và chậm phát triển, còi cọc khi cây lớn. 3. Biện pháp quản lí - Do tuyến trùng sống trong đất, hại phần rễ nên thường khó phát hiện. Khi lúa có biểu hiện triệu chứng trên thân, lá thì đã bị hại nặng, khó khăn trong việc phòng trừ. Để phòng trừ tuyến trùng hại rễ lúa, cần thường xuyên điều tra đồng ruộng, phát hiện sớm và phòng trừ kịp thời theo các biện pháp kỹ thuật như sau: + Để nước ngập trong ruộng vài ngày trước khi làm đất chuẩn bị gieo sạ. + Cố gắng giữ nước trong ruộng, không để khô hạn lâu, nhất là giai đoạn lúa còn nhỏ. + Khi phát hiện tuyến trùng gây hại, cần cho nước vào ruộng khoảng 3 – 5 cm và giữ liên tục 5 – 7 ngày. Hoặc sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật có hoạt chất Fipronil dạng hạt với liều lượng 1-2 kg thuốc/1.000 m2. - Sau khi sử dụng thuốc 5 – 7 ngày, sử dụng một số loại phân bón hữu cơ qua lá có thành phần acid humic để giúp lúa nhanh hồi phục, ra lá, ra rễ nhanh hơn. * Gợi ý sản phẩm Phân bón vi lượng Sapphire chai 500ml. Sử dụng 50ml cho bình 25 lít nước - Thành phần: Chất hữu cơ: 4,5%, Axit Humix (C): 1,5%, Kẽm (Zn): 16.000ppm, Kali hữu hiệu (K2O): 8,5%, Sắt (Fe): 500ppm. - Công dụng: + Giải độc phèn, chống ngộ độc hữu cơ + Giúp bộ rễ phát triển mạnh, tạo rễ mới cho cây trồng + Cây đâm chồi khỏe, kéo đọt nhanh, đẻ nhánh nhiều + Giúp dày lá, bóng lá, cứng cọng, mập cọng Phân bón hữu cơ qua lá giúp lúa nhanh hồi phục, ra lá, ra rễ nhanh hơn   Công ty cổ phần BVTV Delta   Nguồn: ADMIN tổng hợp - Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Bạc Liêu Bài viết liên quan MUỖI HÀNH PHÒNG TRỊ SÂU CUỐN LÁ NHỎ HẠI LÚA RẦY NÂU HẠI LÚA RẦY LƯNG TRẮNG    
Nhện hại cam, quýt
ĐỘNG VẬT HẠI CÂY TRỒNG Nhện hại cam, quýt
NHỆN HẠI CAM, QUÝT 1. NHỆN VÀNG (Phyllocoptruta oleivora) - Ký chủ Gây hại chủ yếu trên cam, chanh, quýt. - Đặc điểm gây hại: + Nhên gây hại từ khi trái vừa mới tượng cho đến khi thu hoạch. Tuy nhiên, nhện tập trung mật số rất cao trên trái non. Gây hại bằng cách cạp và hút dịch của vỏ trái, tập trung nhiều trên phần vỏ trái hướng ra phía ngoài tán lá. + Sự ăn phá của nhện trên vỏ trái làm trái bị nám và có hiện tượng da lu và da cám. + Khi mật số nhện cao, vỏ trái và lá như bị phủ một lớp lông sần sùi. Trái bị gây hại thường có vỏ dày hơn bình thường và có kích thước nhỏ hơn các trái không bị gây hại. Khi mật số cao, nhện vàng cũng gây hại trên lá và cành non. Do chu kì sinh trưởng ngắn nên nhện vàng có khả năng bộc phát rất nhanh. + Triệu chứng hại điển hình khi trái đủ lớn, vỏ trái có màu xám bạc, mất màu xanh hoặc vàng đặc trưng, toàn bộ vỏ trái hay dưới trái có màu thâm hơi nâu hoặc thâm đen. Làm giảm đáng kể giá trị thương phẩm. Nếu bị hại từ lúc trái nhỏ, trái không lớn được, có khi bị khô và rụng. - Đặc điểm hình thái: Thành trùng màu vàng tươi, cơ thể dẹp, thon dài có hình dạng củ cà rốt, có kích thước rất nhỏ, con cái dài khoảng 0,1 mm. Nhện vàng chỉ có 2 cặp chân. Phần đuôi nhọn có 2 lông dài. Trứng rất nhỏ, tròn, màu trắng. Ấu trùng nhện vàng cũng rất nhỏ, màu vàng nhạt, có dạng củ cà rốt với 2 cặp chân ngắn đưa ra phía trước. 2. NHỆN ĐỎ (Panonychus citri) - Ký chủ Gây hại trên khế, đu đủ, quýt, chanh, cam mật, dâu, táo, khoai mì, lê…, thuộc loài đa ký chủ. - Đặc điểm gây hại: + Nhện đỏ tấn công trên lá và trái, chích cạp hút nhựa lá và trái. + Trên lá, vết cạp và hút tạo thành những chấm nhỏ li ti trên mặt lá, khi bị nặng, vết chấm lan rộng ra, lá có màu ánh bạc, lá sau đó có thể bị khô và rụng. Khi mật số nhện cao, cả cành non cũng bị nhện tấn công. Lá bị nhện (bên trái), lá không bị nhện (bên phải) + Trên trái, nhện thường sống tập trung ở phần cuốn trái, đáy trái và trong các phần lõm của trái. Khi trái còn non, nhện chích và hút dịch ở lớp biểu bì và làm vỡ tuyến tinh dầu trên vỏ trái, vỏ trái sau đó bị biến màu và các vết thương khô dần tạo những đốm sần sùi trên vỏ trái (da cám). Nếu mật số cao trái non có thể bị rụng sớm. - Đặc điểm hình thái + Trứng rất nhỏ, tròn, màu đỏ, phía trên có 1 cái cuống, từ đỉnh cuống có trên 10 sợi tơ kéo dài thành hình đồng tâm đến bề mặt của lá, rất đặc trưng. + Ấu trùng mới nở có màu vàng nhạt hoặc nâu nhạt với 3 cặp chân, các tuổi sau, ấu trùng có 4 cặp chân, cơ thể tròn, màu đỏ tương tự thành trùng. + Thành trùng đực dài khoảng 0,3 mm, màu cam hay đỏ sậm, hình bầu dục tròn. Thành trùng cái có cơ thể thon dần về cuối bụng. Trên cơ thể thành trùng có khoảng 20 sợi lông trắng, dài, mọc trên những ống lồi nhỏ. Thành trùng cái có râu 3 đốt, 4 cặp chân. + Nhiệt độ thích hợp cho nhện phát triển và gây hại là 25oC. 3. NHỆN TRẮNG (Polyphagotarsonemus latus) - Ký chủ Nhện trắng thuộc nhóm đa ký chủ, được ghi nhận trên 60 họ thực vật khác nhau gồm: bông vải, cam, quýt, cà, ớt, trà, đu đủ, dưa leo, nho, chanh. - Đặc điểm gây hại: Nhện trắng thường thích tấn công phần vỏ (trái non, đường kính khoảng 2,5 cm) nằm trong tán lá. Khi bị gây hại, bề mặt vỏ trái mất màu, phát triển không đều, gần giống như triệu chứng da cám. Trái có thể bị biến dạng, ngưng phát triển và rụng sau đó. Khi mật số cao, nhện trắng tấn công cả phần lá non, làm lá biến màu và có thể phát triển cong queo. - Đặc điểm hình thái + Trứng rất nhỏ, trong suốt, hình bầu dục, mặt dưới dẹp, mặt trên 5-6 hàng ống nhỏ dạng u lồi. Trứng được đẻ ở mặt dưới lá non, trên cành non, trên trái non, cuống bông hay bông. Thời gian ủ trứng 2-3 ngày. Ấu trùng cũng rất nhỏ, hình trái lê, thường tập trung gần vỏ trái nơi nhện được nở ra từ trứng. Trứng nhện trắng + Giai đoạn ấu trùng kéo dài khoảng 2-3 ngày. Thành trùng có chiều dài 0,16 mm, chiều ngang 0,96 mm. Chu kỳ sinh trưởng rất ngắn, 4-5 ngày (từ trứng đến thành trùng). Thành trùng cái sống khoảng 11-12 ngày, thành trùng đực sống khoảng 15-16 ngày. Vào giai đoạn trưởng thành, con đực mạng con cái trên cuối lưng bụng, ở tư thế nằm ngang, tạo nên dạng chữ T rất đặc trưng. 4. Biện pháp phòng trị - Thường xuyên quan sát đồng ruộng để phát hiện các ổ nhện gây hại. - Sử dụng các loại thuốc có hoạt chất Abamectin như: Rồng Việt, Penalduc 145EC và dầu khoáng phun vào giai đoạn cây vừa nhú đọt non và đọt non ra rộ. Công ty cổ phần BVTV Delta Bài viết liên quan Côn trùng hại cam, quýt Bệnh hại cam, quýt              
Ốc Bươu Vàng
ĐỘNG VẬT HẠI CÂY TRỒNG Ốc Bươu Vàng
ỐC BƯƠU VÀNG Pomacea canaliculata 1. NGUỒN GỐC Ốc Bươu Vàng có nguồn gốc từ Nam Mỹ, vào những năm 1980 chúng được nhập vào Châu Á và nuôi rộng rãi để cung cấp nguồn thức ăn giàu chất đạm cho gia súc, gia cầm và con người. Tuy nhiên, Ốc Bươu Vàng đã vượt khỏi nơi nuôi và trở thành dịch hại nguy hiểm cho mùa màng. Năm 1988 Ốc Bươu Vàng được nhập vào và nuôi ở Việt Nam và cũng tương tự như các nước Châu Á khác, Ốc Bươu Vàng đã nhanh chóng trở thành dịch hại nguy hiểm trên lúa ở Việt Nam. 2. ĐẶC ĐIỂM GÂY HẠI - Ốc thường gây hại từ ngay sau khi sạ cho đến khi cây lúa được 30 ngày tuổi. Ốc ăn lúa non - Ốc Bươu Vàng hoạt động mạnh vào buổi sáng và chiều tối, chúng gây hại bằng cách cắn ngang thân cây lúa, ăn trụi thành từng đám, khiến nhiều diện tích lúa bị chết hoàn toàn. Ốc Bươu Vàng có thể ăn 7-24 cây mạ/ngày. Dấu hiệu nhận biết Ốc Bươu Vàng gây hại là: mất cây, cây lúa đứt ngang thân làm cho lá – thân cây lúa nổi trên mặt nước. Ốc Bươu Vàng gây hại - Thiệt hại năng suất gây ra bởi Ốc Bươu Vàng có liên quan đến mật số và tuổi ốc: ở mật độ 1 con/m2 năng suất giảm 20%, ở mật độ 8 con/m2 thì năng suất giảm đến 90%. 3. ĐẶC ĐIỂM ỐC BƯƠU VÀNG - Ốc trưởng thành cỡ lớn, dạng mập tròn, gồm đầu thân và chân. Đầu có hai đôi xúc tu (một đôi dài và một đôi ngắn). Thân nằm trên chân, là một khối xoắn ẩn kín trong vỏ. Chân rộng, hình đĩa, màu trắng kem nằm ở phía bụng. Mặt lưng của chân có nắp vỏ che đậy. Đầu và chân thường thò ra ngoài vỏ khi di chuyển. Toàn bộ cơ thể ốc nằm trong lớp vỏ. Vỏ Ốc Bưu Vàng + Vỏ ốc: có dạng hình cầu, không bóng, màu vỏ thay đổi từ vàng, xanh vàng đến nâu, nâu đen có vân hoặc không có vân. + Lỗ miệng vỏ: loe rộng, con đực có lỗ miệng vỏ tròn hơn con cái. + Nắp miệng vỏ: bằng chất sừng, con cái trưởng thành có nắp miệng vỏ lõm, trong khi nắp miệng vỏ con đực thì lồi. + Vòng xoắn: có 5-6 vòng xoắn phồng, rãnh xoắn sâu, các vòng xoắn trên thấp nên tháp ốc lùn, vì thế vỏ ốc có dạng hình cầu. + Lỗ rốn: sâu và rộng. + Cơ thể: Thịt ốc có màu thay đổi từ kem vàng, vàng nâu đến đen nhạt. Ống thở có những đốm vàng, dài gấp 2,5 lần chiều cao của vỏ ốc. + Trứng: ốc đẻ trứng vào bất cứ vật thể nào phía trên mặt nước, trứng có màu hồng đậm khi mới đẻ và nhạt dần thành màu hồng nhạt khi trứng nở. Trứng Ốc Bưu Vàng 4. NƠI SINH SỐNG: Chúng sống được ở nơi có nước chảy chậm như sông, hồ, kênh rạch, hoặc những nơi nước tù đọng như đầm lầy, lung bàu, ao tù…Chúng có thể sống trong ruộng lúa nước, ruộng khoai môn, ruộng rau muống…. 5. KHẢ NĂNG SINH SẢN - Giới tính + Ốc Bươu Vàng là loài sinh sản hữu tính, có con đực và con cái riêng, sự sinh sản chỉ thành công khi có sự giao phối giữa con đực và con cái. - Sự bắt cặp và đẻ trứng + Ốc Bươu Vàng sinh sản quanh năm, sự bắt cặp xảy ra ở nơi có nước ngập vỏ. Thời gian bắt cặp kéo dài từ 10 đến 20 giờ và con đực nhịn đói trong suốt thời gian này. Con cái cần 5 giờ để đẻ một ổ trứng. Con cái có thể giữ tinh trùng trong cơ quan sinh sản đến 140 ngày sau khi giao phối đủ để thụ tinh cho 3000 trứng, nhờ vậy chúng vẫn có thể đẻ trứng hữu thụ mặc dù không giao phối trong thời gian này. Ốc đẻ trứng trên thân cây lúa non + Sự đẻ trứng thường xảy ra vào lúc sáng sớm, chiều tối và nhiều nhất là vào ban đêm, vào khoảng 24 giờ đến 15 ngày sau khi giao phối. 6. SỰ PHÁT TRIỂN VÀ SINH SỐNG Thời gian từ đẻ trứng đến nở là 10 ngày, tỷ lệ nở 85%. Ở Việt Nam, Ốc Bươu Vàng có thể bắt cặp khi đạt kích thước 1,5-2cm, sinh sản lúc trọng lượng cơ thể đạt 3 gram. Ở vùng Châu Á nhiệt đới Ốc Bươu Vàng trưởng thành sớm lúc 60 ngày tuổi, sinh sản quanh năm nên chúng gia tăng mật độ quần thể cũng như lan rộng rất nhanh. Ốc có thể sống 4-6 năm. 7. SỰ HÔ HẤP Ốc Bươu Vàng có khả năng sống trong nước và cả trên cạn, do có cả hai bộ phận mang và phổi. Nhờ vậy chúng có thể sống được trong môi trường nước ô nhiễm, thiếu oxy cũng như có thể sống sót qua một thời kỳ khô hạn hoặc có thể phân tán đi nơi khác bằng cách bò trên mặt đất. 8. SỰ NGỦ NGHỈ Ốc Bươu Vàng ở vùng nhiệt đới, nơi mà mùa nắng đồng ruộng ao tù bị khô hạn, nên chúng có khả năng tự vùi mình vào trong bùn để có thể sống sót trong điều kiện đất khô. Ốc Bươu Vàng vùi mình vào trong đất có thể sống sót từ 3 tháng đến 6 tháng và vùi sâu 30cm. 9. BIỆN PHÁP PHÒNG TRỪ - Biện pháp canh tác: + Làm đất kỹ, bằng phẳng, tránh để những khu vực trũng nước trên ruộng. + Bắt ốc và ổ trứng bằng tay vào sáng sớm hoặc chiều mát. + Đánh rãnh thoát nước (25x5 cm) cách nhau 10-15 m trên ruộng để ốc đến sống tập trung trong rảnh tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu gom bằng tay. + Đặt lưới chặn mương nước vào ruộng ngăn ốc xâm nhập. Nên đặt lưới sớm ngay từ đầu vụ đến khi thu hoạch. + Cắm các cọc tre, sậy ở những chỗ ngập nước, mương kênh tưới để thu hút ốc đến đẻ trứng và thu gom dễ dàng. - Biện pháp hóa học + Sử dụng các loại thuốc có hoạt chất Niclosamide, Metadehyde trị Ốc Bươu Vàng như: thuốc ốc xịt VDCSNAILNEW 750WP, thuốc ốc bã mồi THẦN DIỆT ỐC, PASSPORT 200GR, CON CÒ DIỆT ỐC. + Thời điểm xử lý: tùy điều kiện ruộng có thể xử lý ốc vào các giai đoạn sau: => Phun/rải nhử trước: sạ vài ngày, dẫn nước vào ruộng, nhử ốc trồi lên rồi phun thuốc, sau đó làm đất tiến hành sạ bình thường. => Phun/rải ngay khi lấy nước vào ruộng, chuẩn bị rước phân đợt 1 (khoảng 7-8 ngày sau sạ). * Lưu ý: + Khi ruộng mới sạ gặp mưa lớn, ruộng nổi nước là điều kiện thích hợp để ốc gây hại. Cần xử lý kịp thời, tránh để ốc gây hại nặng là thất thu năng suất. + Khi phun hoặc rải thuốc diệt ốc phải giữ mực nước trên ruộng khoảng 3-5 cm, sau khi phun tiếp tục giữ nước trên ruộng 1-2 ngày để diệt hết ốc còn lại. + Nên phun hoặc rải vào chiều mát hay sáng sớm. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm nên phun (rãi) thuốc vào lúc chiều mát, vì ốc thường trồi lên cắn phá mầm lúa vào chiều và tối. Công ty cổ phần BVTV Delta Bài viết liên quan Rầy lưng trắng Rầy nâu hại lúa Sâu cuốn lá nhỏ hại lúa Nhên gié hại lúa    
Sản phẩm chất lượng
Sản phẩm chất lượng
Cam kết người tiêu dùng nhận được sản phẩm tốt nhất
Đảm bảo nguồn cung
Đảm bảo nguồn cung
Đảm bảo cung cấp sản phẩm đầy đủ theo nhu cầu sử dụng của khách hàng
Miễn phí Vận chuyển
Miễn phí Vận chuyển
Cho các đơn hàng thuộc tỉnh miền Tây
Giao hàng siêu tốc
Giao hàng siêu tốc
Giao tận nhà hoặc nhận tại cửa hàng
Giỏ hàng
Giỏ hàng của bạn đang trống.
Zalo -  CÔNG TY CP BẢO VỆ THỰC VẬT DELTA