KIẾN THỨC NHÀ NÔNG

DINH DƯỠNG KẼM ĐỐI VỚI CÂY TRỒNG
KIẾN THỨC NHÀ NÔNG DINH DƯỠNG KẼM ĐỐI VỚI CÂY TRỒNG
DINH DƯỠNG KẼM ĐỐI VỚI CÂY TRỒNG - Kẽm là một trong những nguyên tố quan trọng nhất trong quá trình chuyển hóa carbohydrate, hầu hết các enzyme đóng vai trò trong quá trình chuyển hóa carbohydrate đều được kẽm kích hoạt. - Kẽm là thành phần xây dựng chính của một số enzyme và cần thiết cho sự hình thành enzyme của thực vật như: Alcohol dehydrogenase, metallo-enzyme cacbonic, anhydrase. Ngoài ra, kẽm còn đóng vai trò quan trọng trong quá trình tổng hợp axit nucleic, protein để cung cấp năng lượng và điều hòa sự tăng trưởng. - Thiếu kẽm có thể làm giảm tới 50% năng suất mà không biểu hiện triệu chứng gì. Trường hợp thiếu kẽm nặng, triệu chứng thiếu hụt dinh dưỡng sẽ xuất hiện chủ yếu ở các lá trưởng thành hoàn toàn, thường là các lá thứ hai thứ ba từ trên xuống. - Kẽm hấp thụ bởi cây trồng giảm khi pH đất tăng lên. Đất có pH>6 có thể thiếu kẽm, đặc biệt là đất bón nhiều vôi. - Giữa lân và kẽm có thể xảy ra đối kháng. Khi bón lân quá nhiều cũng gây tình trạng thiếu kẽm do cây không hút được kẽm. - Kẽm thường tập trung nhiều ở lớp đất mặt giàu mùn. Nếu lớp đất mặt bị rửa trôi hoặc bị lấy đi thì cây trồng cũng dễ bị tình trạng thiếu kẽm. - Thiếu hụt kẽm có thể nhìn thấy biểu hiện qua triệu chứng lóng thân ngắn, lá vàng rỗng thân, lá phát triển hẹp. -  Kéo dài quá trình chín cũng là một triệu chứng của cây thiếu kẽm. - Trên cây bắp, thiếu kẽm lá sẽ có từ 1 sọc vàng nhạt đến một dải các mô màu trắng hoặc vàng tới các sọc đỏ tía giữa gân và mép lá, xảy ra chủ yếu ở phần dưới của lá. - Trên cây lúa, sau khi cấy 15-20 ngày, xuất hiện các đốm nhỏ rải rác màu vàng nhạt xuất hiện trên các lá già, phát triển lan rộng ra, hợp lại và trở thành màu sẫm. Sau đó, lá trở thành màu đỏ và bị khô đi trong vòng 1 tháng. - Đối với nhóm cây có múi, trên cam, chanh xuất  hiện lá úa vàng không đều giữa các gân lá, các lá non trở nên ngắn và hẹp, sự hình thành nụ quả sẽ giảm mạnh, các loại cây có cành bị khô đầu cành và chết.     Công ty cổ phần Bảo Vệ Thực Vật Delta
KỸ THUẬT TRỒNG CÂY KHOAI MÔN
KIẾN THỨC NHÀ NÔNG KỸ THUẬT TRỒNG CÂY KHOAI MÔN
KỸ THUẬT TRỒNG CÂY KHOAI MÔN Colocasia esculenta 1. Chọn giống    Củ giống tốt là những củ con cấp 1 hoặc cấp 2 có khối lượng 20-30 g/củ, không bị thối, lớp vỏ ngoài có nhiều lông. Mảnh củ giống tốt khi mảnh củ có mầm to bằng hạt đậu đen kèm theo vài sợi rễ ngắn khoảng 0,5-1 cm. - Có 2 phương pháp nhân giống:   + Phương pháp 1: Phá tính ngủ nghỉ của đỉnh củ bằng cách cắt bỏ mầm ngọn, như vậy sẽ làm kích thích các lá mầm bên phát triển sớm. Trong thực tế người ta thường cắt củ cái thành những mảnh củ theo chiều ngang củ hoặc cắt thành mảnh nhỏ kích thước 2x2x2 cm khi đã có mầm bên, đem ủ hoặc giâm chúng riêng rẽ, khi lên cây chồi, ra rễ thì đem trồng.   + Phương pháp 2: Nhân giống bằng cấy mô. 2. Thời vụ - Khoai môn có thể trồng quanh năm, nhưng phổ biến trồng ở 3 vụ chính sau:   + Vụ Xuân Hè: trồng tháng 1-2 dương lịch, thu hoạch tháng 5-6 dương lịch.   + Vụ Hè Thu: trồng tháng 5-6 dương lịch, thu hoạch tháng 8-9 dương lịch.   + Vụ Thu Đông: trồng tháng 8-9 dương lịch, thu hoạch tháng 11-12 dương lịch. 3. Chuẩn bị đất    Khoai môn có bộ rễ ăn nông, thích hợp đất có thành phần cơ giới nhẹ như đất cát pha, đất thịt nhẹ ở ven sông. Đất phải được cày, bừa kỹ, san bằng phẳng mặt để tránh bị đọng nước. Lên liếp đôi để trồng 2 hàng, liếp rộng 1,8-2 m, xẻ mương giữa rộng khoảng 0,2 m. 4. Gieo trồng - Ươm cây   + Chọn củ con cấp 1 hoặc cấp 2 có khối lượng 20-30 g, không thối hoặc khô ở đít và lớp vỏ ngoài có nhiều lông.   + Ngâm củ giống trong lu có nước ngập xâm xấp, có xử lý thuốc trừ nấm trong vòng 12 giờ, sau đó rửa cho sạch, trải củ giống có lót bao bố nơi mát tránh bị mưa rồi trùm bao lên củ giống thời gian từ 1-3 ngày.   + Liếp ươm có đổ tro trấu, rải củ đều trên mặt liếp, sau đó phủ lớp tro trấu lên mặt có tủ 1 lớp rơm mỏng, sau 12-15 ngày lấy ra trồng, phân loại củ giống theo mầm dài trồng trước và mầm ngắn trồng sau để dễ chăm sóc. - Trồng cây   + Mật độ trồng: Lượng giống cần: 1.200-1.500 củ giống/1.000 m2.   + Khoảng cách trồng: Cây cách cây là 0,6 m và hàng cách hàng 1 m. Rạch hàng hoặc đào hốc để đặt củ, sau đó phủ 1 lớp đất mỏng lên củ, phủ 1 lớp rơm rạ lên để giữ ẩm.   + Xử lý đất: Tưới thuốc trừ nấm cộng với thuốc sâu dạng hạt, có mùi hôi để diệt kiến, dế có trong đất. 3. Chăm sóc - Lượng phân bón cho 1 ha như sau:   + Bón lót: Phân hữu cơ vi sinh: 2 tấn, phân lân (P2O5): 60kg   + Bón thúc      * Lần 1: Đạm (N): 48 kg, Kali (K2O): 32 kg, bón vào giai đoạn cây khoai được 4-5 lá. Bón đều cách gốc 15-20 cm, vun nhẹ và kết hợp lấp phân.      * Lần 2: Đạm (N): 32 kg, Kali (K2O): 48 kg, vào giai đoạn cây khoai 7-8 lá. - Vun xới đất nhẹ theo các lần bón thúc, tránh làm đứt rễ sẽ ảnh hưởng đến năng suất củ. Chỉ xới rảnh liếp và vun đất vào gốc khoai. - Tưới nước: Cần tưới nước giữ ẩm và tưới nước sau khi bón phân để phân dễ tan. 4. Phòng trừ sâu bệnh - Sâu hại    + Sâu xanh: Gây hại lá bằng cách ăn lủng lá làm ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cây.   + Rầy mềm: Chích hút dinh dưỡng thân lá và truyền bệnh virus. Chúng gây hại chủ yếu vào cuối vụ, sử dụng thuốc có hoạt chất Imidacloprid, Thiamethoxam, Etofenprox…    + Nhện đỏ: Gây hại chủ yếu vào cuối mùa khô, là lá héo rũ hoặc chết cây con. Phun thuốc có hoạt chất Propargite, Sulfur, Hexythiazox. - Bệnh hại    + Bệnh cháy lá: do nấm Phytophthora colocasiae. Chủ yếu gây hại vào mùa mưa, bệnh xuất hiện đầu tiên là các đốm lá tròn 1-2 cm, sủng nước, màu hơi tím, đốm nâu trên lá, đốm bệnh lớn dần làm cháy cả lá. Phòng bệnh như vệ sinh đồng ruộng, sử dụng giống kháng hoặc ít nhiễm, tránh lây lan cơ học và phun định kỳ 7-14 ngày/lần bằng các thuốc gốc đồng hoặc Ridomyl, Manzate, Dithan.    + Bệnh thối mềm củ: Do nấm Pythium spp. Mầm bệnh tấn công rễ và củ giống làm củ thối mềm và bốc mùi hôi, lá vàng úa, cây héo rồi chết. Phòng bệnh bằng cách luân canh, sử dụng củ giống không nhiễm bệnh, xử lý củ giống và xử lý đất bằng thuốc trừ nấm hoạt chất Carbendazin, Propineb, Bordeaux, Zineb, Chlorothalonil,…    + Bệnh thối củ: Do nấm Sclerothium rolfsii. Cây lùn, củ thối, quanh gốc cây và trên củ có nhiều tơ nấm trắng và hạch nấm trắng. Tưới thuốc trừ nấm khi bệnh xuất hiện như: Thiophanate-methyl, Metalaxyl, Mancozeb, Benomyl…    + Bệnh bướu rễ: Do tuyến trùng Meloidogyne spp. Rễ và củ nổi bướu, củ bị sần, méo mó, cây lùn và lá vàng như thiếu đạm. Phòng trị bệnh dùng giống sạch bệnh, diệt tuyến trùng trong củ bằng cách ngâm trong nước 54oC trong vòng 50 phút. 5. Thu hoạch    Sau trồng 4,5-5 tháng, lúc ruộng khoai có 70-80% lá chuyển sang màu vàng. Chọn ngày không mưa để thu hoạch, nếu thu hoạch khi lá vẫn còn xanh thì không cắt ngay lá mà để nguyên cả cây nơi râm mát trong 5-7 ngày để củ chín sinh lý thêm và đảm bảo chất lượng.     Công ty cổ phần Bảo Vệ Thực Vật Delta
CÂY KHOAI MÔN
KIẾN THỨC NHÀ NÔNG CÂY KHOAI MÔN
CÂY KHOAI MÔN Tên tiếng Anh: Elephant-ear, Taro, Cocoyam, Dasheen, Chembu, Eddoe. Tên khoa học: Colocasia esculenta (L.) Schott Họ: Araceae (họ Ráy) 1. Đặc điểm thực vật - Khoai môn sọ: Là loại cây thân thảo thường cao từ 0,5-2 m. Cây môn sọ gồm có 1 củ cái ở giữa thường nằm ở dưới đất, từ đó lá phát triển lên trên, rễ phát triển xuống dưới, trong khi củ con, củ nách và các dãi bò phát triển sang các bên.  + Rễ: Hệ thống rễ của loài môn sọ là rễ chùm mọc ở đốt mầm, ngắn và phát triển thành nhiều tầng. Rễ thường có màu trắng hoặc có chưa anthocianin.  + Thân: Cây môn sọ chỉ có thân giả trên mặt đất. Củ cái chính được coi là cấu trúc thân chính của cây (được gọi là thân củ). Trên thân củ có nhiều đốt, mỗi đốt có mầm phát triển thành nhánh.  + Lá: Là phần duy nhất nhìn thấy trên mặt đất, quyết định chiều cao của cây. Mỗi lá được cấu tạo bởi một dọc lá thẳng và một phiến lá.  + Dọc lá: Mập, có bẹ ôm chặt ở phía gốc tạo nên thân giả, bẹ của dọc thường là dạng ôm.  + Củ gồm 3 phần: Vỏ ngoài, vỏ áo và lõi củ (thịt củ). Vỏ ngoài có thể nhẵn, sần sùi hoặc được phủ bằng những lớp vảy thường có màu nâu đậm. Sắc tố trong củ có thể là trắng, trắng xơ vàng, vàng hoặc tắng xơ tím. Kích thước và hình dạng củ rất khác nhau tùy thuộc vào kiểu gen, loại củ giống và các yếu tố sinh thái. Tất cả củ cái, củ con và củ nách có cấu tạo bên ngoài gần như nhau đều có một mầm ở đỉnh và nhiều mầm nách của vô số các lá vảy trên thân củ. 2. Các thời kì sinh trưởng Cây khoai môn là cây thân thảo nhưng nó tồn tại từ năm này qua năm khác nhờ củ cái và củ con. Từ khi trồng đến thu hoạch trải qua 3 giai đoạn: - Giai đoạn ra rễ mọc mầm    Xảy ra ngay sau khi trồng và tiếp theo là sự phát triển nhanh chóng của chồi (mầm) củ. Khi chồi mầm ra khỏi mặt đất đến khi phát triển lá thứ nhất mất khoảng 15-20 ngày, sau đó trung bình 10-12 ngày xòe 1 lá. Từ lúc lá nhú đến nở hoàn toàn mất 4-5 ngày. Tuổi thọ của lá khoảng 32-37 ngày. Khi ra lá thứ 4, thứ 5 thì lá thứ nhất bắt đầu héo, sau đó cứ được 2-3 lá thì có 1 lá héo. - Giai đoạn sinh trưởng thân lá    Đặc trưng bởi sự phát triển thân lá và thình thành củ cái. Khi tốc độ ra lá nhanh, cũng là lúc diên tích lá tăng nhanh nhất. Sự hình thành củ cái thường bắt đầu xảy ra sau trồng khoảng 3 tháng. Sự hình thành củ con được xảy ra sau đó một thời gian ngắn. Trong giai đoạn này, cây cũng bắt đầu đẻ nhánh phụ. Sự phát triển của chồi và lá sẽ chỉ giảm mạnh vào khoảng sau trồng 5-6 tháng. Vào thời điểm đó, số lá mọc chậm lại, chiều dài của dọc cũng giảm, giảm tổng diện tích lá trên cây và giảm cả chiều cao cây trung bình trên đồng ruộng. - Giai đoạn phình to của thân củ    Thời gian đầu củ cái và củ con phát triển chậm nhưng khoảng tháng thứ 4-6 ( phụ thuộc vào giống ngắn ngày hay dài ngày) khi sự phát triển của chồi giảm, củ cái và củ con phát triển rất nhanh. Cuối vụ, sự lụi đi của rễ và các chồi càng tăng nhanh cho đến khi chồi chính chết. Lúc này thu hoạch củ là thích hợp nhất. Nếu củ không được thu hoạch, chính củ cái và củ con cho phép cây tồn tại qua mùa khô và chúng sẽ nảy mầm, mọc thành cây mới vào thời vụ thích hợp tiếp theo. Những nơi không có mùa khô, sau khi thân tàn, củ lại mọc mầm mới tiếp tục phát triển thêm vài năm nữa.     Công ty cổ phần Bảo Vệ Thực Vật Delta  
PHÒNG TRỪ SÂU BỆNH HẠI CÀ CHUA
KIẾN THỨC NHÀ NÔNG PHÒNG TRỪ SÂU BỆNH HẠI CÀ CHUA
  PHÒNG TRỪ SÂU BỆNH HẠI CÀ CHUA 1. Rầy phấn trắng (Bemisia tobaci):     Thành trùng màu trắng, dài khoảng 2 mm, bay chậm. Ấu trùng rất giống rệp dính, màu trắng trong, được phủ một lớp sáp, ít bò, thường cố định một chỗ chích hút mô cây. Ấu trùng và thành trùng đều chích hút làm lá biến vàng, cây mau suy yếu, giảm năng suất và truyền bệnh khảm do virus. 2. Bọ trĩ, bù lạch (Thrips palmi):     Thành trùng và ấu trùng rất nhỏ có màu trắng hơi vàng, sống trong đọt non hay mặt dưới lá non, chích hút nhựa cây làm cho đọt non bị xoăn lại.    Cả 2 đối tượng trên đều phát triển nhanh trong điều kiện nóng và khô, rất nhanh quen thuốc khi phun ở nồng độ cao, hoặc phun thường xuyên định kỳ mà ít thay đổi nhóm thuốc. Chúng truyền bệnh virus làm cây bị ngù đọt, trái bị sượng. Phun mặt dưới lá, mỗi lần một trong các nhóm hoạt chất Emamectin, Abamectin, Imidacloprid, Pymetrozine. Mỗi lần phun kết hợp với dầu khoáng (1-2 ml/L). 3. Dòi đục lòn:     Ấu trùng sống trong lá, đục thành những đường ngoằn ngoèo, dòi đẩy sức dài 3,3 mm. Thành trùng là loài ruồi đen nhỏ, có điểm vàng trên lưng ngực, bay kém nên di chuyển trên ruộng theo hướng gió. Ấu trùng dòi đục lá đục vào trong lá ăn mô lá, chừa lại biểu bì tạo ra những đường ngoằn ngoèo trên lá. Thành trùng - Ấu trùng 4. Sâu xanh đục trái (Heliothis armigera):     Thành trùng là bướm đêm, kích thước to. Trứng đẻ thành ổ có phủ lông vàng, một bướm cái đẻ 200-2000 trứng. Sâu ở phía ngoài thò đầu vào bên trong phá hại búp non, nụ hoa, cắn điểm sinh trưởng, đục thủng trái từ khi còn xanh cho đến lúc gần chín làm thối trái. 5. Sâu ăn tạp, sâu ổ, sâu đàn (Spodoptera litura):     Sâu non lúc nhỏ sống tập trung ở mặt dưới phiến lá nên gọi là sâu ổ, khi lớn lên phân tán dần, mình có màu xám với khoan đen lớn ở trên phía lưng sau đầu, ăn lủng lá có hình dạng bất định, hoặc cắn đứt ngang thân cây con. Sau đó sâu thường chui vào xống trong đất, ẩn dưới các khe nứt hay rơm rạ phủ trên mặt đất, nhộng ở trong đất. Nên làm đất kỹ trước khi trồng vụ sau để diệt sâu và nhộng còn sống trong đất. Có thể ngắt bỏ ổ trứng hay bắt sâu non đang sống tập trung. 6. Bệnh héo rũ, héo xanh, chết nhát (vi khuẩn Ralstonia solanacearum):     Bệnh thường gây hại trên cây đã trưởng thành hoặc đang mang trái. Đầu tiên là các lá ngọn bị héo vào buổi trưa và tươi lại vào buổi chiều mát, sau vài ngày cây bệnh chết hẳn không còn khả năng hồi phục. Các lá già khi cây chết có màu vàng và khô. Nếu cây chết chậm hơn, quan sát phần gốc cây vẫn bình thường, nhổ cây lên tách phần võ ra ta thấy có những sọc đen chạy dọc theo thân là do vi khuẩn làm nghẽn mạch nhựa.    Phòng ngừa: Phun thuốc 7 ngày/lần với một số thuốc thuộc các nhóm Oxytetracyline Hrochloride + Streptomycine Sulfate, Protein Amylose, Streptomyces lydicus WYEC 108. 7. Bệnh héo vàng (nấm Fusarium oxyporum):     Cây chết, lá vàng từ gốc lên trên, phun thuốc vào gốc thân các loại thuốc trừ nấm có hoạt chất Mancozeb, Metalaxy, thuốc gốc đồng, … 8. Bệnh thán thư (nấm Colectotrichum phomoides): 9. Bệnh mốc đen lá (nấm Cladosporium fulvum): 10. Bệnh mốc sương, héo muộn (nấm Phytophthora ingestans):     Phun mặt dưới lá và trái luân phiên các loại thuốc trừ nấm có hoạt chất Mancozeb, Metalaxy, Propineb, Oxytetracyline Hrochloride, thuốc gốc đồng, …     Công ty cổ phần Bảo Vệ Thực Vật Delta  
KỸ THUẬT CANH TÁC CÀ CHUA
KIẾN THỨC NHÀ NÔNG KỸ THUẬT CANH TÁC CÀ CHUA
KỸ THUẬT CANH TÁC CÀ CHUA 1. Chọn giống Savior: Thân sinh trưởng hữu hạn cao 0.81 m, kháng bệnh khảm khá, thịt trái dầy và chắc, trọng lượng trái 60-80 g/trái, trồng được quanh năm, cho thu hoạch 60-65 ngày sau khi trồng, thời gian thu hoạch khoảng 30-40 ngày, năng suất trung bình 3.5-3.5 tấn/1000m2. Red Crow 250, TN148: Thân sinh trưởng bán hữu hạn, cao 1.52 m, cần làm giàn chắc chắn, cây tăng trưởng mạnh, trồng quanh năm, trái phát triển đều, trái tròn, hơi có khía, rất cứng và ít nứt trái trong mùa mưa, trọng lượng trái 70-100 g/trái. Giống cho thu hoạch 65-70 ngày sau khi trồng, thời gian thu hoạch dài, năng suất 3-4 tấn/1000m2. TN 84: Cà chery, khả năng cho trái tốt trong vụ Đông Xuân, dạng cây trung bình, cao khoảng 1.5 m, đậu trái nhiều, cho thu hoạch 65-70 ngày sau khi cấy cây con, dạng trái elip dài, thon, màu đỏ tươi, nặng khoảng 8-12 g/trái, ngon, độ đường 8.5%, trái cứng dễ vận chuyển và bảo quản, cuống trái khó rụng, năng suất 1.5-2 tấn/1000 m2. 2. Thời vụ     Trồng quanh năm Vụ Động Xuân (vụ thuận): Trồng từ tháng 12 năm trước đến tháng 2 năm sau, thời tiết mát, đậu trái nhiều, năng suất cao nhất. Vụ Xuân Hè: Trồng từ tháng 1 đến tháng 4, đậu trái kém hơn vụ Đông Xuân, chú ý phòng trị rầy phấn trắng và bù lạch gây bệnh khảm (ngù đọt). Vụ Thu Đông (vụ nghịch): Trồng từ tháng 7 đến tháng 11, mưa dầm dễ bị úng ngập và bị bệnh héo xanh, năng suất thấp nhưng giá cao. 3. Chuẩn bị đất - Lên liếp + Liếp đôi: mặt liếp rộng 1-1.3 m, trồng 2 hàng, lối đi 0.5 m, khoảng cách cây 0.35 m (giống thấp cây) đến 0.5 m (giống cao cây), mật độ 2500-3000 cây/1000 m2, phù hợp trồng trong mùa nắng và loại hình sinh trưởng thấp như cây cà chua F1 giống Savior. + Liếp đơn: Mặt liếp rộng 0.6 m, trồng 1 hàng, lối đi 0.6 m, khoảng cách cây 0.5 m, mật độ 1.600 cây/1000 m2. Thích hợp trồng mùa mưa hoặc loại cây sinh trưởng cao như cà TN 148, Red Crown 250. Sử dụng màng phủ nông nghiệp: Tưới thật đẫm nước trước khi đậy màng phủ, trên 1000 m2 dùng 1.5-2 cuồn màng phủ, chiều dài mỗi cuồn 400 m, khi phủ liếp mặt xám bạc hướng lên, màu đen hướng xuống. Nếu liếp trồng một hàng dùng màng phủ khổ rộng 1-1.2 m, liếp trồng 2 hàng dùng màng phủ khổ 1.2-1.6 m, nên phủ kín chân liếp thì hiệu quả càng cao, dùng que ghim mé màng phủ tránh gió tốc. 4. Gieo trồng - Lượng hạt gieo cho 1000 m2 là 7-10 gram (330-350 hạt/gram). Hạt gieo trong khay ươm chuyên dùng 15-20 ngày đem trồng, cây con để trễ hơn sẽ dễ đỗ ngã trong mùa mưa. Làm mái che cho cây con khi mưa. - Trồng cây vào buổi chiều mát, nhẹ nhàng để tránh vỡ đất xung quanh rễ, lắp đất vừa ngang miệng bầu đất. Rãi các loại thuốc có mùi hôi (1-2 kg/1000 m2) ngay lỗ trống, tránh dế hay sâu ăn tạp hại cây con. 5. Chăm sóc - Bón phân: Tùy theo loại đất, loại và lượng phân bón trung bình toàn vụ cho 1 ha với công thức nguyên là 215 kg N – 200 kg P2O5 – 210 kg K2O. Bón phân thúc bằng cách vén màng phủ, rãi mỗi lần một bên. - Lượng phân bón cho 1 ha như sau: + Bón lót: Vôi bột 1500 kg + Phân hữu cơ vi sinh 2000 kg + NPK (20-20-15) 300kg. + Bón thúc ngày sau khi trồng (NSKT): 17-20 NSKT: NPK (20-20-15) 150kg + KCl 20 kg + Ca(NO3)2 20 kg. 35-40 NSKT: NPK (20-20-15) 150kg + KCl 30 kg. 55-60 NSKT: NPK (20-20-15) 250kg + KCl 30 kg + Ca(NO3)2 30 kg. 75 NSKT: NPK (20-20-15) 150kg + KCl 20 kg + Ca(NO3)2 20 kg. Cà chua thường bị thối đít trái như mày ốc do thiếu canxi, nếu thấy trái non bị thối nên phun trên lá bằng Canxi Clorua (CaCl2), nồng độ 2-4‰ định kỳ 7-10 ngày/lần từ lúc trái non phát triển. + Tưới nước: Ngay sau khi trồng, gặp nắng mạnh dùng vòi sen tưới 2-3 lần/ngày, vào khoảng 3-5 ngày đầu. Nếu trồng trên nền đất lúa thì áp dụng biện pháp tưới thấm vào buổi chiều mát, cho nước vào rãnh khoảng 1 giờ rút cạn, 3-4 ngày tưới một lần, lúc cây mới trồng mực nước cao cách đỉnh liếp 10 cm, cây càng lớn mực nước càng thấp dần, khi cây mang trái không giữ nước trong rãnh, chỉ giữ cho đất ráo, vừa đủ ẩm để hạn chế bệnh héo xanh. Mùa mưa cần chú ý thoát nước tốt. + Làm giàn: Khi cây cao 30-40 cm, cắm cây trụ (cao 1.5 m) dọc theo hàng cà, dạng thẳng đứng như hàng rào hoặc chữ A, khoảng cách giữa 2 cây trụ 3-4 m, giăng dây chì hoặc ni lông, giữ cho cây cà đứng vững. + Tỉa chồi và lá chân: Tỉa bỏ tất cả chồi dại ở dưới vết ghép và tỉa bỏ các chồi gốc khi vừa nhú ra. Nếu cà chua thuộc loại sinh trưởng vô hạn (cây cao hơn 1 m) thì chừa 1-2 nhánh/cây, nếu thuộc loại sinh trưởng hữu hạn (thấp hơn 1 m) thì giữ hết nhánh. Nên tỉa bỏ các lá chân đã già hoặc chuyển sang màu vàng giúp tập trung dinh dưỡng nuôi trái, cây thông thoáng, ít bị sâu bệnh. + Phòng trừ sâu bệnh hại chính: Rầy phấn trắng (Bemisia tobaci), Bọ trĩ, bù lạch (Thrips palmi), Dòi đục lòn, Sâu xanh đục trái (Heliothis armigera), Sâu ăn tạp, sâu ổ, sâu đàn (Spodoptera litura), …. Đặt bẫy dính màu vàng ngay sau khi trồng để bắt các loại côn trùng có cánh, làm giảm số cây bị ngù đọt, số lượng khoảng 30-40 bẫy/1000 m2. Bệnh héo rũ, héo xanh, chết nhát (vi khuẩn Ralstonia solanacearum), Bệnh héo vàng (nấm Fusarium oxyporum), Bệnh thán thư (nấm Colectotrichum phomoides), Bệnh mốc đen lá (nấm Cladosporium fulvum), Bệnh mốc sương, héo muộn (nấm Phytophthora ingestans): Phun mặt dưới lá và trái luân phiên các loại thuốc trừ nấm có hoạt chất Mancozeb, Metalaxy, Propineb, Oxytetracyline Hrochloride, thuốc gốc đồng, … 6. Thu hoạch     Cà bắt đầu cho thu hoạch 75-80 NSKT (30-35 ngày sau khi trổ hoa) và thu hoạch kéo dài 30-35 ngày, từ 4-7 lứa. Thời điểm thu hái cà tùy mục đích sử dụng, cung cấp cho thị trường gần nên thu khi trái chín đỏ. Nếu phải chuyên chở đi xa nên thu hoạch cà vào giai đoạn trái chín xanh.   Công ty cổ phần Bảo Vệ thực vật Delta
Thối đen trái Na - Bệnh thán thư trên cây Na (Mảng cầu ta)
KIẾN THỨC NHÀ NÔNG Thối đen trái Na - Bệnh thán thư trên cây Na (Mảng cầu ta)
BỆNH THÁN THƯ TRÊN CÂY NA - Cây na dễ sống không kén chọn đất, kể cả đất nghèo dinh dưỡng, đất sỏi, đất cát, chua hoặc trung tính. - Na chịu được biên độ nhiệt lớn, chịu rét khá tốt. Mùa đông cây rụng lá, nghỉ đông ngừng sinh trưởng, đến mùa xuân lại mọc lá mới. - Tuy nhiên, cây Na vẫn chịu áp lực rất lớn từ sâu bệnh hại. Trong đó, bệnh thán thư hay là bệnh đen trái Na là bệnh ảnh hưởng rất nghiệm trọng đến năng suất của cây Na. - Tác nhân gây bệnh do: Nấm Colletotrichum gloesporioides gây ra. 1. Triệu chứng gây hại - Bệnh gây hại cả trên lá, chồi non, hoa và trái. - Trên trái: Nấm bệnh xâm nhiễm trên trái thể hiện triệu chứng đầu tiên là những đốm nâu đen trên trái, hơi ướt, sau vết bệnh lan rộng dần, hình dạng không đều, màu nâu sẫm tới màu đen. Quả non bị bệnh thì khô đen và rụng. Quả lớn có thể bị khô đen một phần. - Trên lá: Lá non dễ mẫn cảm với bệnh hơn lá già, trên lá có những đốm màu nâu. Đặc trưng của bệnh là những vòng đen đồng tâm, trên vết bệnh có những chấm đen nhỏ là các ổ bào tử. Nhiều vết bệnh liên kết nhau làm lá bị cháy khô từng mãng, ranh giới vết bệnh và phần lá còn lại có đường viền màu nâu đậm. - Trên chồi non: Vết bệnh ban đầu có dạng thấm nước, sau chuyển màu nâu tối. Trời nắng cả chồi bị chết khô, trời mưa thì bị thối. Vết bệnh có thể lây xuống dưới làm khô cành. - Trên hoa: Hoa bị bệnh có màu nâu khô, rụng hoa nhiều. 2. Điều kiện phát sinh, phát triển: - Nấm phát triển trong phạm vi nhiệt độ từ 6 – 32oC, thích hợp nhất là 23 – 25oC.  Điều kiện thời tiết ấm, mưa nhiều, vườn cây rậm rạp thuận lợi cho bệnh phát triển gây hại - Nấm tồn tại ở dạng bào tử trên tàn dư cây bệnh trong đất. Nấm lan truyền do những hạt mưa bay theo gió và tiếp xúc giữa những trái nhiễm bệnh. Thời tiết ấm áp và mưa nhiều thuận lợi cho bệnh phát triển gây hại. - Sâu đục trái gây hại cũng tạo điều kiện cho nấm bệnh phát triển và gây hại nặng trên trái Na. - Như thời tiết hiện nay thì khó kiểm soát bệnh, thường thì cây Na vào giai đoạn làm bông cho trái đến thu hoạch sẽ bị bệnh này. 3. Quản lý bệnh thán thư trên cây Na bà con cần thực hiện các biện pháp như sau. - Không trồng mật độ quá dày, khoảng cách phù hợp là 3x3m hay 3x4m. - Thường xuyên vệ sinh vườn, tỉa cành tạo tán cho vườn thông thoáng. - Bón phân cân đối, đặc biệt là không bón dư đạm. - Bổ sung phân hữu cơ cho cây. - Khi cây có dấu hiệu bị bệnh. - Như trái bị đen thì tỉa bỏ thu gom đem tiêu hủy tránh làm lây lan cho trái khác. - Giải pháp tốt nhất là bà con phun ngừa bệnh thán thư vào giai đoạn trái non khi trái bằng ngón tay cái, phun định kỳ 20 ngày/lần bằng các loại thuốc có hoạt chất như Mancozeb, Metalaxyl, Azoxystrobin, Defenconazol hoặc các loại thuốc gốc đồng. - Sản phẩm Biorosamil hoặc sản phẩm  AMITY TOP 500SC để phòng và trị bệnh thán thư trên cây Na. - Sử dụng kết hợp thêm 50ml Canxi Bo/ bình 25 lít để phun vừa để phòng ngừa bệnh thán thư cho trái Na vừa bổ dung Canxi và Bo giúp hạn chế rụng trái non và làm cho trái tròn đều, không bị méo mó trái. - Nếu vườn na đang bị bệnh thì bà con chỉ sử dụng thuốc trừ bệnh, không sử dụng phân bón lá giai đoạn này. Vì nếu phun phân bón lá vô tình làm bệnh gây hại năng hơn, do nấm bệnh sẽ sử dụng nguồn dinh dưỡng trong phân bón lá để phát triển.   Công ty cổ phần BVTV Delta Bài viết liên quan QUẢN LÝ BỆNH HẠI SẦU RIÊNG BỆNH HẠI CAM, QUÝT QUẢN LÝ BỆNH HẠI TRÊN CÂY XOÀI BỆNH HẠI CHUỐI  
Rễ lúa bị phình to - Bướu rễ lúa - Tuyến trùng gây hại trên cây lúa
KIẾN THỨC NHÀ NÔNG Rễ lúa bị phình to - Bướu rễ lúa - Tuyến trùng gây hại trên cây lúa
RỄ LÚA BỊ PHÌNH TO - BƯỚU RỄ LÚA - TUYẾN TRÙNG GÂY HẠI TRÊN CÂY LÚA Rice root knot nematode 1. Tuyến trùng là gì? - Tuyến trùng còn gọi là giun tròn (Nematode) là những động vật không xương sống thuộc ngành giun tròn (Nematoda hay Nemata) gồm 2 lớp: Secernente và Andenophorea có 11 bộ, nhiều họ, giống và loài. Hiện nay có trên 15.000 loài đã được khảo sát, trong đó có khảng 2.000 loài sống trong đất. Hầu hết tuyến trùng gây bệnh cho cây trồng thuộc bộ Tylenchida với 5 họ chủ yếu là Heteroderidae, Tylenchidae, Aphelenchidae, Tylenchalidae và Neotylenchidae. - Tuyến trùng có kích thước rất bé từ 0,5-5mm đa số dưới 2mm mắt thường không nhìn thấy được. Tuyến trùng thực vật sống và ký sinh ở tất cả các bộ phận của cây trồng bao gồm rễ, thân , lá và hoa. Tuyến trùng xung quanh rễ cây trồng 2. Triệu chứng gây hại trên rễ lúa - Tuyến trùng gây Bướu rễ trên lúa có tên khoa học là Meloidogyne graminicola. Tuyến trùng Meloidogyne cái  (hình quả lê) Tuyến trùng Meloidogyne đực - Tuyến trùng hại lúa có thể đục lỗ chui vào sinh sống bên trong rễ ngay từ khi mới gieo sạ và hình thành bướu trên rễ rất sớm (từ 5 ngày sau sạ). Cây lúa khoảng 1 tháng tuổi thường bị tuyến trùng xâm hại nếu đất ruộng có nguồn bệnh sẵn có. Khi bị xâm hại, cây lúa bị lùn, lá hơi vàng, tăng trưởng chậm; nhổ lên thấy rễ vẫn trắng nhưng bị ngắn lại, bướu xuất hiện ở nhiều đoạn của rễ hoặc ở chóp rễ, nơi có ổ tuyến trùng bị phù to tạo bướu 1 –  2 mm. - Khi bị tuyến trùng ký sinh, cây lúa bị bệnh bướu rễ sẽ bị chết khi còn non (2 – 3 lá) và phát triển chậm khi cây lúa ở giai đoạn 4 lá trở đi. Giai đoạn sau cây lúa ít bị chết nhưng tốn nhiều phân bón và cây phát triển kém do chất dinh dưỡng bị tắc nghẽn không vận chuyển nuôi thân lá được. Vì vậy, nếu bị nặng cây lúa sẽ có triệu chứng vàng lá, cháy khô từ chóp xuống, lúa phát triển kém, chồi nhiễm bệnh bị lùn, trổ sớm và có rất ít hạt, hạt bị lửng lép nhiều. - Tuyến trùng gây hại mạnh trong giai đoạn đầu của cây lúa, nhất là trong điều kiện ruộng lúa thường xuyên bị khô hạn, tuyến trùng sẽ ngừng sinh trưởng trong môi trường ngập nước. Những ruộng đất bị chua do bón nhiều lân từ những vụ trước hoặc đất có thành phần cơ giới nhẹ (cát pha) thì mật độ tuyến trùng thường cao hơn chân ruộng khác. Các chân ruộng để ải và giữ được nước thường xuyên sau gieo cấy sẽ ít bị tuyến trùng xâm hại. - Tuyến trùng sau khi xâm nhiễm 4 ngày, các đại tế bào được thành hình. Vòng đời của tuyến trùng có thể từ 26 – 51 ngày. Khi tuyến trùng xâm nhập vào bộ rễ cây và làm tổ tạo thành bướu sẽ làm tắc nghẽn sự vận chuyển nước và dinh dưỡng của hệ thống rễ, làm cây biến vàng rồi chết dần khi còn nhỏ và chậm phát triển, còi cọc khi cây lớn. 3. Biện pháp quản lí - Do tuyến trùng sống trong đất, hại phần rễ nên thường khó phát hiện. Khi lúa có biểu hiện triệu chứng trên thân, lá thì đã bị hại nặng, khó khăn trong việc phòng trừ. Để phòng trừ tuyến trùng hại rễ lúa, cần thường xuyên điều tra đồng ruộng, phát hiện sớm và phòng trừ kịp thời theo các biện pháp kỹ thuật như sau: + Để nước ngập trong ruộng vài ngày trước khi làm đất chuẩn bị gieo sạ. + Cố gắng giữ nước trong ruộng, không để khô hạn lâu, nhất là giai đoạn lúa còn nhỏ. + Khi phát hiện tuyến trùng gây hại, cần cho nước vào ruộng khoảng 3 – 5 cm và giữ liên tục 5 – 7 ngày. Hoặc sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật có hoạt chất Fipronil dạng hạt với liều lượng 1-2 kg thuốc/1.000 m2. - Sau khi sử dụng thuốc 5 – 7 ngày, sử dụng một số loại phân bón hữu cơ qua lá có thành phần acid humic để giúp lúa nhanh hồi phục, ra lá, ra rễ nhanh hơn. * Gợi ý sản phẩm Phân bón vi lượng Sapphire chai 500ml. Sử dụng 50ml cho bình 25 lít nước - Thành phần: Chất hữu cơ: 4,5%, Axit Humix (C): 1,5%, Kẽm (Zn): 16.000ppm, Kali hữu hiệu (K2O): 8,5%, Sắt (Fe): 500ppm. - Công dụng: + Giải độc phèn, chống ngộ độc hữu cơ + Giúp bộ rễ phát triển mạnh, tạo rễ mới cho cây trồng + Cây đâm chồi khỏe, kéo đọt nhanh, đẻ nhánh nhiều + Giúp dày lá, bóng lá, cứng cọng, mập cọng Phân bón hữu cơ qua lá giúp lúa nhanh hồi phục, ra lá, ra rễ nhanh hơn   Công ty cổ phần BVTV Delta   Nguồn: ADMIN tổng hợp - Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Bạc Liêu Bài viết liên quan MUỖI HÀNH PHÒNG TRỊ SÂU CUỐN LÁ NHỎ HẠI LÚA RẦY NÂU HẠI LÚA RẦY LƯNG TRẮNG    
Bệnh sọc trong
KIẾN THỨC NHÀ NÔNG Bệnh sọc trong
BỆNH SỌC TRONG Bacterial leaf streak - Tác nhân do vi khuẩn Xanthomonas oryzae pv. oryzicola 1. Triệu chứng - Lúc đầu vết bệnh là những sọc nhỏ, màu xanh đậm dạng thấm nước và trong mờ, nằm giữa các gân nhỏ của lá lúa. Sau đó, vết bệnh ngã màu vàng cam trong mờ khi nhìn xuyên qua ánh sáng. Do vết bệnh có dạng trong mờ nên bệnh được gọi là bệnh sọc trong. - Bệnh sọc trong gây hại ở bất kỳ giai đoạn tăng trưởng nào của cây lúa. Vi khuẩn xâm nhiễm qua khí khổng và nhân mật số lên trong các mô của lá. Triệu chứng ban đầu là vệt nhỏ dạng ngậm nước, trong suốt, vết bệnh có thể lan dọc giữa các gân lá và dần dần chuyển sang màu nâu. - Trong điều kiện ẩm ướt về buổi sáng trên bề mặt sọc nâu tiết ra những giọt dịch nhỏ, tròn, màu vàng đục, về sau khô rắn thành viên keo vi khuẩn trong như hạt trứng cá, dễ dàng rơi khỏi mặt lá xuống nước ruộng và nhờ nguồn nước đưa đi xa để lan truyền bệnh. Cuối cùng lá bện cháy khô tương tự như bệnh bạc lá vi khuẩn. 2. Tác nhân gây hại - Do vi khuẩn Xanthomonas oryzae pv.oryzicola. - Vi khuẩn gây bệnh sọc trong thuộc nhóm vi khuẩn gam âm, hình que ngắn có kích thước 0,4-0,6 x 1-1,25 µm, di chuyển nhờ có 1 lông roi ở đầu. 3. Điều kiện phát sinh và phát triển - Nhiệt độ thích hợp cho sự phát triển của vi khuẩn là 26-30 oC, vi khuẩn chết ở nhiệt độ 80oC. - Vi khuẩn xâm nhập vào lá qua khi khẩu và xâm nhập nhiều vào buổi trưa hơn sáng sớm và chiều mát (do khí khẩu mở ra vào lúc có nhiều ánh sáng). - Sau khi xâm nhập, vi khuẩn sống ở phần dưới của khí khẩu của lá lúa và phát triển ra chung quanh nhu mô của lá lúa. Các gân nhỏ lá là rào cản ngăn không để vi khuẩn phát triển theo chiều ngang mà chỉ phát triển dọc theo lá lúa, giữa hai gân lá. Do cách gây hại này, lúc ban đầu bệnh tạo ra các sọc hẹp trên lá lúa. Vi khuẩn nhân mật số lên và chiếm tất cả tế bào của nhu mô nơi vết bệnh. Vi khuẩn phá hủy lớp pectin và cellulose của nhu mô. 4. Biện pháp quản lý - Làm đất tốt, cài vùi rơm rạ sâu vào đất. Làm bằng phẳng mặt ruộng, không để mặt đất lòi lõm. Chỗ trũng sẽ tích tụ phân đạm bón vào ruộng, là nơi bệnh phát triển sớm và nặng. - Bón phân đúng kỹ thuật, đúng giai đoạn. Bón thúc sớm cân đối với kali theo tỷ lệ nhất định (1:1). - Khi phát hiện có vài lá lúa mắc bệnh cần phải phun ngay thuốc trị vi khuẩn để chặn đứng bệnh lại. Cần phun lặp lại 5-7 ngày/lần tùy thời tiết. Sử dụng các loại thuốc có hoạt chất như: Ningnanmycin (Pyramos 40SL), Kasugamycin (Kasuduc 3SL), Oxolinic acid,... và các loại thuốc kháng sinh để trị bệnh sọc trong.   Công ty cổ phần BVTV Delta Bài viết liên quan Bệnh cháy bìa lá lúa Bệnh đạo ôn Phòng trị bệnh lem lép hạt trên lúa Bệnh vàng lá chín sớm    
Thuốc xử lý giống Gaotra 600FS
KIẾN THỨC NHÀ NÔNG Thuốc xử lý giống Gaotra 600FS
https://www.youtube.com/channel/UCXdsOvUIUzIriGDOMxJCnFg Kinh nghiệm nhà nông-Công ty cổ phần BVTV Delta
Thiết kế mương líp cho vườn cây ăn trái
KIẾN THỨC NHÀ NÔNG Thiết kế mương líp cho vườn cây ăn trái
THIẾT KẾ MƯƠNG LÍP CHO VƯỜN CÂY ĂN TRÁI 1. Kích thước mương - Kích thước mương thường được quyết định tùy theo các yêu tố  như địa hình cao hay thấp, độ sâu của tầng sinh phèn, giống cây trồng và chế độ nuôi trồng xen trong vườn. - Bề mặt và chiều sâu của mương thường phụ thuộc chặt vào chiều cao của líp. Tỉ lệ mương/líp thường là ½. Chiều sâu mương từ 1-1,5 m tùy địa hình, tầng sinh phèn,… - Vách bên của mương (cũng như mặt bên của líp) luôn luôn phải có độ nghiên (tà ly) khoảng 30-45 độ để tránh sụp lở. Tỷ lệ mương chiếm khoảng 30-35 %. Trồng cỏ dọc theo bờ mương giữa đất hạn chế sụp lở là việc cần phải làm trong thiết kế xây dựng vườn. 2. Kích thước líp - Líp đơn: Ở những vùng đất có độ dày tầng canh tác mỏng, mùa mưa bị ngập sâu hay đất có phèn thì có thể thiết kế líp đơn để có đủ đất làm líp, giúp rửa phèn nhanh. Líp đơn thường rộng 4-5 m, trồng cây 1 hàng. - Líp đôi: Ở những vùng đất có tầng canh tác dày, ngập khộng sâu vào mùa mưa, đất tốt thì líp đôi thường được thiết kế. Líp đôi được dùng trồng 2 hàng, có khi 3 hàng (dạng tam giác, chữ ngũ). Chiều rộng líp thay đổi tùy loại cây, từ 6-12 m. Trong trường hợp muốn thoát nước nhanh trong mùa mưa có thể xen kẻ các rãnh nước nhỏ trên líp. Khi sử dụng líp đôi cần phải làm cho phần giữa líp cao hơn để tránh cho các hàng trồng giữa líp bị úng nước trong mùa mưa. - Chiều cao líp tùy thuộc vào độ sâu ngập sâu nhất trong năm, thường thì chiều cao líp thích hợp cho hầu hết các loại cây ăn trái ở ĐBSCL là cách mực nước cao nhất trong năm khoảng 30 cm. - Hướng líp + Cần xây hướng líp song song hay thẳng góc với bờ bao, để dễ dàng điều tiết nước trong vườn. Đối với các loại cây ưa trảng, nên bố trí líp theo hướng Bắc – Nam để nhận được nhiều ánh sáng, ngược lại bố trí theo hướng Đông – Tây cho những loại cây thích bóng râm. Cũng cần lưu ý là bố trí hướng líp song song với hướng gió để vườn thông thoáng, khô ráo, ít sâu bệnh. 3. Kỹ thuật lên líp - Lên líp theo lối cuốn chiếu (Hình 1) + Ở những vùng có lớp đất mặt tốt và lớp đất dưới không phèn thì kỹ thuật lên líp theo lối “cuốn chiếu” được áp dụng. + Đào lớp đất mặt mương để làm chân líp, sau đó trải lớp đất sâu làm mặt líp. Cách làm này đỡ tốn chí phí, tuy nhiên sau đó cần lên mô bằng đất tốt (dùng đất mặt ruộng, bãi sông, bùn mương phơi khô hay đất vườn cũ) để trồng, tránh gây ngộ độc cho cây con. Có thể trồng một vài bụi chuối, cây phân xanh trước khi trồng cây trồng chính. Hình 1: Lên líp kiểu cuốn chiếu - Lên líp theo lối kê đất (Hình 2) + Ở những vườn có lớp đất mặt mỏng, lớp đất dưới không tốt có phèn,.. thì có thể lên líp theo lối kê đất. + Đào lớp đất mặt ở mương thứ nhất đưa qua líp thứ nhất bên trái, sau đó đưa lớp sâu của mương thứ nhất trải lên làm chân líp thứ hai bên phải, tiếp đến lấy lớp đất mặt ở mương thứ hai trải lên làm mặt líp thứ hai. Lấy lớp đất sâu của mương thứ hai trải làm chân líp thứ ba và đào lớp đất mặt mương thứ ba trải làm mặt líp thứ ba. Tiếp tục như vậy cho đến líp cuối cùng. Hình 2: Lên líp theo lối kê đất - Lên líp theo băng (Hình 3) + Đào lớp đất mặt ở mương trải dài thành một băng ở giữa chạy dọc theo líp, sau đó đào lớp đất sâu của mương ốp vào hai bên băng. Cây được trồng ngay trên băng giữa líp. + Cần lưu ý đắp lớp đất ở hai bên băng luôn luôn thấp hơn mặt băng, để có thể rửa được các độc chất khi mưa, không thấm vào băng. Hình 3: Lên líp theo băng - Đắp mô: Trong trường hợp đắp thành mô thì lớp đất mặt được tập trung đắp thành các mô để trồng cây ngay sau khi thiết kế (kích thước, khoảng cách tùy theo loại cây trồng., phần đất xấu của mương được đắp vào phần còn lại của líp và thấp hơn mặt mô. (Hình 4) Hình 4: Đắp mô - Điểm quan trọng cần lưu ý khi đào mương lên líp là không nên đào mương sâu quá tầng sinh phèn (lớp đất sét màu xám xanh) vì sẽ đưa phèn lên líp gây độc cho cây. Công ty cổ phần BVTV Delta  
Sản phẩm chất lượng
Sản phẩm chất lượng
Cam kết người tiêu dùng nhận được sản phẩm tốt nhất
Đảm bảo nguồn cung
Đảm bảo nguồn cung
Đảm bảo cung cấp sản phẩm đầy đủ theo nhu cầu sử dụng của khách hàng
Miễn phí Vận chuyển
Miễn phí Vận chuyển
Cho các đơn hàng thuộc tỉnh miền Tây
Giao hàng siêu tốc
Giao hàng siêu tốc
Giao tận nhà hoặc nhận tại cửa hàng
Giỏ hàng
Giỏ hàng của bạn đang trống.
Zalo -  CÔNG TY CP BẢO VỆ THỰC VẬT DELTA